id quod volo

Sunday, September 30, 2007

NGĂN CÁCH

Chủ Nhật 26 Thường Niên C
Am 6:1, 4-7; 1Tm 6:11-16; Lc 16:19-31

Bảo Lộc

Chuyện kể rằng có một nhà giầu kia thường than phiền với người bạn thân rằng ông không thấy hạnh phúc. Ông giao thiệp rộng, tiệc tùng ngày đêm. Cuộc sống vật chất ông không thiếu thứ gì, nhưng ông rất cô đơn.

Một hôm, người bạn đến thăm, sau khi nghe ông than thở, anh ta dẫn ông ra cửa sổ nhìn xuống đường và hỏi: “Anh nhìn thấy gì?” Ông nhà giầu đáp: “Tôi thấy người ta đi lại, đàn ông, đàn bà, cụ già, trẻ con.”

Sau đó, người bạn dẫn ông nhà giầu đến một tấm gương và hỏi: “Bây giờ anh thấy gì?” Ông ta đáp: “Tôi chỉ thấy chính tôi.”

Người bạn ôn tồn nói: “Trong cửa sổ có gắn kính, và ở tấm gương cũng có kính. Khi anh nhìn kính trong cửa sổ, anh có thể thấy người khác. Nhưng phía sau tấm kính trong gương là một lớp bạc. Khi lớp bạc được tráng vào, anh không còn nhìn thấy những người khác. Anh chỉ nhìn thấy chính anh!”

Lớp bạc có thể tượng trưng cho những gì đang ngăn cách chúng ta với những người khác. Đó có thể là tiền bạc, danh vọng, quyền lực, hay là sự ích kỷ, kiêu ngạo, thái độ dửng dưng. Tất cả những thứ đó có thể làm chúng ta mù lòa không còn thấy Thiên Chúa và người khác. Chúng ta chỉ thấy mình và những nhu cầu của mình.

Dụ ngôn Người phú hộ và Lazarô (Lc 16: 19-31) nói về số phận của những người làm ngơ trước nỗi thống khổ của kẻ khác. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát. Xót xa cho người giầu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: “Kẻ ăn không hết, người lần không ra.” Hai hoàn cảnh, hai cuộc đời. Người thì giầu có sống trong xa hoa nhung lụa, yến tiệc linh đình. Kẻ thì cùng khổ, đói rách bệnh tật, sống vất vưởng lang thang.

Ông phú hộ chẳng phải là người hẹp hòi độc ác. Ông không sai gia nhân đuổi anh Lazarô ra khỏi cổng nhà ông. Ông không chửi rủa mắng nhiếc anh đã ăn vạ ở trước sân nhà ông, mà cũng chẳng đánh đập La-za-rô mỗi khi ông đi ngang qua chỗ anh nằm. Thật ra, ông không quan tâm đến sự hiện diện của Lazarô. Cổng nhà ông vẫn mở, nhưng lòng ông đã đóng chặt. Anh đói hay no, lạnh hay ấm, ông không cần biết. Anh nằm đó, như cái xác không hồn, đau đớn bệnh tật, ông không cần biết. Anh thèm thuồng những thức ăn thừa mứa trên bàn của ông, nhưng cũng chẳng ai cho (Lc 16:20-21). Thỉnh thoảng mấy con chó nhà ông chạy đến liếm ghẻ chốc trên người của anh, cho anh bớt ngứa ngáy. Kể cũng lạ, mấy con chó này còn quan tâm đến anh trong khi chủ nó thì lại hờ hững vô cảm!

Thế rồi cả hai đều lần lượt qua đời. Kẻ nghèo cũng chết mà người giầu rồi cũng chết. Chẳng ai tránh được số phận tuyệt đối công bằng. Nhưng sau khi chết, số phận hai người hoán ngôi đổi chỗ cho nhau. Anh Lazarô nghèo khổ được vào hưởng cõi phúc với tổ phụ Abraham, còn ông phú hộ thì đau khổ trong địa ngục. Bấy giờ ông phú hộ mới mở mắt nhìn thấy anh Lazarô. Ông muốn làm một cái gì đó để thay đổi cục diện. Nhưng đã quá muộn rồi!

Khi còn sống, ông phú hộ có thói quen sai bảo người khác phục vụ mình. Sau khi chết, ông vẫn muốn xin tổ phụ Abraham sai Lazarô đến cho ông chút nước để đỡ khát. Nhưng điều đó giờ không thể làm được. Khi còn sống ông đã tự cô lập mình khỏi nhu cầu của người khác, ông đã tay đào một hố sâu ngăn cách giữa mình và tha nhân. Ông đã dửng dưng nhìn cái hố ngăn cách giữa ông và người hàng xóm cùng khổ mà không hề đặt một câu hỏi. Giờ ông phải sống mãi trong sự ngăn cách đó. Giờ thì ông đang bị chính những dục vọng của mình thiêu đốt trong địa ngục mà không ai có thể xoa dịu cho ông được.

Sự đổi đời này minh họa lời Chúa Yêsu tuyên bố: “Phúc cho anh em, hỡi những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em, hỡi những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng … Nhưng khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ giầu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.” (Lc 6, 20-21, 24-25).

Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham. Danh xưng Lazarô (nguyên gốc tiếng Do thái là Eliaza) có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Anh được thưởng vì anh đặt niềm cậy trông nơi Chúa trong cuộc đời khốn khổ của anh. Không than van, không trách móc, không oán giận. Anh tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả. Vì anh đặt trọn vẹn số phận đời anh nơi Thiên Chúa, điều đó đem lại cho anh phần thưởng hạnh phúc vĩnh cửu, nói theo kiểu của người Do Thái là được ở với tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.

Còn ông phú hộ đã làm gì sai lầm nghiêm trọng mà số phận lại ra như thế? Thật ra, chính lối sống của ông đã đưa ông vào tình trạng này. Ông đã chọn một lối sống hưởng thụ, ích kỷ và dửng dưng. Cái tội của ông là đã không nhấc ngón tay để giúp đỡ một tí, một tí thôi, những người cần được giúp đỡ. Cái tội của ông là đã không nhìn lại một tí, một tí thôi, đến những người cần được quan tâm. Cái tội thờ ơ lãnh đạm, sống trong sự ngăn cách với đồng loại khổ đau. Cái tội hưởng thụ ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân, không màng gì đến tha nhân. Tội này là bước đầu hủy hoại tình liên đới giữa con người và con người, phá hoại nền tảng luân lý của xã hội.

Thiếu quan tâm đến những người nghèo khổ không chỉ là vấn đề của cá nhân. Lối sống dửng dưng vô cảm dần dần sẽ đem lại tình trạng bất ổn cho xã hội khi hố sâu giầu nghèo quá cách biệt. Vào thế kỷ thứ tám trước công nguyên, ngôn sứ Amốt đã cảnh cáo giới quý tộc của Israel về lối sống xa hoa phù phiếm và lạnh lùng vô cảm của họ. Trong khi dân chúng đói khổ thì “[Họ] nằm dài trên những chiếc giường ngà voi, ngả ngớn trên trường kỷ, ăn uống những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng… [Họ] uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước nhà Giu-se sụp đổ!” (Am 6:4,6). Họ sẽ phải trả một giá rất đắt cho thái độ dửng dưng trước những bất công trong xã hội. Sự phân hoá cách biệt giầu nghèo làm suy yếu xã hội Israel. Họ sẽ là những người bị lưu đầy trước tiên khi quân Assyria chiếm thành Samaria vào năm 720 trước công nguyên. Và lịch sử đã xảy ra như thế!

Bạn thân mến,
Giới răn căn bản và cao trọng nhất, mà ai cũng biết là Mến Chúa, Yêu Người. Nhưng làm sao chúng ta có thể thực hiện điều này, nếu chúng ta không mở lòng với những người chung quanh. Khi tôi nói yêu người tôi phải quan tâm đến người đó là ai, có nhu cầu gì, để tôi có thể giúp đỡ. Giới luật yêu thương không phải là một khẩu hiệu chung chung, nhưng cụ thể cho từng hoàn cảnh, từng con người.

Chân phước Têrêsa Calcutta kể rằng có lần nọ khi Mẹ ở trong tu viện, Mẹ nghe có người gõ cửa. Khi Mẹ mở cửa thì Mẹ thấy một người đàn ông thật ốm và đôi mắt gần lòi ra ngoài. Người đó van xin như sau: “Thưa Mẹ Têrêsa, tôi có thể xin Mẹ giúp cho một bịch gạo được không? Vợ, sáu người con và tôi suốt tuần qua không có gì ăn và sắp chết. Chỉ một bịch gạo có thể cứu sống. Mẹ Têrêsa đáp: “Tôi sẽ cho ông điều ông yêu cầu, nếu ông cho phép tôi đến nhà ông để tận mắt xem tôi có thể làm gì thêm để giúp ông”. Người đó đồng ý và Mẹ Têrêsa cùng đi theo và hai người đến khu nhà ở chuột ở trung tâm thành phố Calcutta, Ấn Độ. Hai người tiến vào căn chòi nhỏ. Và đúng vậy, cả gia đình sống trong đó đúng theo lời kể”.

Mẹ Têrêsa thấy bà vợ và 6 người con, tất cả đều ốm và thiếu dinh dưỡng, sắp chết đói, do vậy đôi mắt lòi ra. Người đàn ông trao bịch gạo cho bà vợ. Nhận bịch gạo, bà vợ làm một cử chỉ lạ. Bà lấy một túi nhỏ chia gạo ra làm hai phần, chỉ để lại phân nửa trong bịch gạo, rồi bà ra ngoài căn chòi vài phút với phần gạo đã chia. Khi bà trở lại thì phần gạo không còn nữa. Mẹ Têrêsa hỏi: “Bà đem phần gạo đi đâu? “. Người vợ trả lời: " Thưa Mẹ Têrêsa, tôi có mấy người láng giềng sắp chết, tôi đã chia phần gạo kia cho hai gia đình bên cạnh.”

Khi Mẹ Têrêsa bước ra khỏi căn chòi thì Mẹ thấy hai gia đình Hồi Giáo vui mừng với phần gạo vừa được chia cho. Một gia đình Kitô nghèo chia sẻ những gì họ có với hai gia đình Hồi Giáo. Không ai nghèo đến độ không có gì để cho; và không ai giầu đến độ không cần nhận.

Thánh Phaolô trong thư gửi ông Timôthê, có lời khuyên rất thực tế cho chúng ta về cách dùng của cải trong mối tương quan với tha nhân:
“Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé… Đối với những anh em có của cải, đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. [Anh em] hãy làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, hãy ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy [anh em] tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật.” (1Tm 6:10, 17-19)

Lời Chúa thách đố chúng ta đừng làm ngơ ngoảnh mặt trước mọi hoàn cảnh bất hạnh, trước mọi đau khổ đang xảy đến chung quanh chúng ta. Có khi chúng ta không nhắm mắt trước những bất công xã hội, những hoàn cảnh đau thương, nhưng chúng ta cảm thấy bất lực và không biết phải làm gì. Trong những lúc như thế, thay vì ngồi đó nguyền rủa bóng tối, chúng ta cố gắng thắp lên một ánh nến của hy vọng, bằng cách thực thi một việc bác ái cụ thể, một cử chỉ nhân ái, dù nhỏ đến đâu, để tỏ ra sự quan tâm đến những người bất hạnh, kém may mắn.

* * * * *
Trong tâm tình và ý nghĩa đó, chúng ta có thể mượn lời cầu nguyện của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta để cầu nguyện cho nhau :

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách :

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,

bằng cách thực thi lời hy vọng nầy :
"Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta" (Mt 25:40) . Amen.